Nông phẩm, thực phẩm sau khi hút chân không thường được bán giá cao hơn vì đem lại sự yên tâm hơn cho khách hàng. Thiếu chất “xám”, mức lan tỏa thấp Kinh tế toàn cầu suy thoái đã và đang xúc tiến nhiều nhà nước tiến hành tái cấu để bảo đảm phát triển nhanh và vững bền. Tâm điểm của tái cấu trúc kinh tế là nâng cao hiệu quả, đốn duyệt hai quá trình là nâng cao hiệu quả của các lĩnh vực kinh tế đang hoạt động và chuyển dịch nguồn lực sang các lĩnh vực mới có hiệu quả kinh tế cao hơn. Không nằm ngoài khuynh hướng chung, Việt Nam đã và đang tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng khu vực dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt hướng tới một nền kinh tế dịch vụ kiến thức. Tuy nhiên, PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn - Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN đánh giá: “Ngành dịch vụ có tốc độ tăng trưởng khá cao nhưng chưa vững bền”. Thực tại, một số mục tiêu như duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành dịch vụ khoảng 7-8%/năm giai đoạn 2001-2010 đã đạt được. Mục tiêu nâng cao tỷ trọng trong GDP của ngành dịch vụ (2002 –2011) lên khoảng 42-43%, tỷ trọng GDP thực tại của ngành dịch vụ chỉ đạt 37-38%, thấp hơn mức trung bình của thế giới và thấp hơn nhiều so với nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á như Philippines, Thái Lan, Malaysia, Indonesia. Thương mại dịch vụ thâm hụt cao, chuyên môn hóa thấp. Hiệu quả đầu tư ở ngành dịch vụ thấp hơn hiệu quả đầu tư ở ngành sinh sản và ở toàn nền kinh tế. Ông Nguyễn Hồng Sơn nhận định thêm: “Khả năng phát triển các ngành dịch vụ tại Việt Nam còn thấp và chừng độ lan tỏa chưa cao”. Sở dĩ, các nhà nước đều muốn tăng tỷ trọng ngành dịch vụ trong cơ cấu kinh tế (Dịch vụ chiếm tới hơn 60% GDP tại các nước phát triển) là do “Dịch vụ đóng góp nhanh nhất vào tăng trưởng kinh tế thế giới, chiếm tới hai phần ba đầu ra của kinh tế thế giới, đứng thứ ba về tạo việc làm và chiếm 20% Thương mại toàn thế giới”, ông Nguyễn Hồng Sơn giải thích. Kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO, việc ứng dụng công nghệ trong các lĩnh vực dịch vụ đã có bước phát triển nhanh, mạnh. PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn đưa ra ví dụ: Một lạng chè thường giá vài ba chục nghìn nhưng chỉ cần đầu tư thêm dịch vụ đóng gói hút chân không thì chè bán ra sẽ có giá gấp cả chục lần. Ở một thí dụ khác, trong vài năm gần đây, nhiều nông dân đã tự nghiên cứu, làm khuôn để tạo ra những trái dưa đỏ vuông hay bưởi hồ lô… có giá bán cao gấp nhiều lần trái thường. Lấy chất lượng làm điểm đột phá Tuy nhiên, các doanh nghiệp dịch vụ ở Việt Nam có quy mô còn nhỏ, chừng độ chuyển hóa thấp, thiếu hụt các quy trình và chuẩn mực của quá trình cung cấp dịch vụ cũng như chuỗi cung ứng dịch vụ, các kỹ năng thực hiện dịch vụ chưa cao, còn thiếu công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông báo. Do vậy, ông Sơn cho rằng, dù Việt Nam đã chú trọng đầu tư vào ngành dịch vụ song hiệu quả chưa cao, tốc độ tăng trưởng khá nhưng tỷ trọng trong GDP vẫn thấp. Thành thử để vượt qua được tình trạng này, ông Sơn cho rằng: “chất lượng dịch vụ được xem là một trong những điểm đột phá” nhằm nâng cao năng suất chất lượng dịch vụ, xúc tiến ngành này phát triển nhanh, chất lượng, hiệu quả và bền vững theo chiều sâu trong dài hạn, từ đó nâng cao năng lực canh tranh của tuốt tuột nền kinh tế. Đồng tình với các quan điểm cho rằng khoảng cách công nghệ dịch vụ của Việt Nam so với thế giới vẫn chưa được thu hẹp đáng kể, GS.TS Nguyễn Văn Bình thuộc liên hợp Khoa học phát triển Du lịch bền vững đưa ra những so sánh. Du lịch là ngành kinh tế dịch vụ, sản phẩm của nó là tổng hợp các dịch vụ cung ứng cho khách du lịch. Theo tài liệu do Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) ấn hành, ngành “du lịch và lữ hành hiện chiếm khoảng 9,9% GDP, 10,9 % xuất khẩu, và 9,4% đầu tư của thế giới”. Xuất khẩu du lịch chiếm khoảng 30% của xuất khẩu dịch vụ toàn thế giới và 6% tất tật xuất khẩu hàng hóa. Việt Nam được xếp vào danh sách “Các điểm đến mới hàng đầu thế giới tuổi 1995-2004“và là một trong số các nước có mức tăng trưởng cao của Châu Á - thăng bình Dương. Tuy nhiên nhìn vào số liệu về tỷ lệ lượng du khách đến của mỗi nước trên tổng số khách đến trong khu vực cho thấy thành quả của ngành du lịch Việt Nam vẫn còn khiêm tốn, đặc biệt so sánh với Thái Lan và Malaysia. Ngoại giả, doanh thu của du lịch Việt Nam cũng không xứng với số lượng khách đến. Tỉ dụ lượng khách quốc tế của Phillippines thấp hơn Việt Nam khá nhiều (1,7% - 2,3%) nhưng doanh thu của Phillippines lại vượt Việt Nam đáng kể (2,2% - 1,8%). Nguyên nhân cơ bản là do chất lượng dịch vụ du lịch còn kém, ông Nguyễn Văn Bình khẳng định và chỉ ra một số khía cạnh. Việc tổ chức tour còn bất hợp lý, mang tính “chạy sô nhiều do tham lam” muốn giới thiệu tất cả tài nguyên chỉ trong một chuyến đi nên bỏ phí nguồn tài nguyên. Tỉ dụ như chương trình city tour Hà Nội chỉ gọn trong một ngày, rồi cơm tối, rối nước, sáng xuất hành rời Hà Nội. Còn có hiện tượng các tour trùng lắp, do chưa đầu tư nghiên cứu kỹ các nguồn tài nguyên, nên ít sáng tạo các sản phẩm đặc thù. Thậm chí có doanh nghiệp ăn trộm ý tưởng, nhái ý tưởng, quảng bá sai với thực tiễn, khác với sự chờ mong của khách. Bên cạnh chất lượng cơ sở hạ tầng như đường sá, bến bãi, nhà ga, thông báo, thanh toán... Còn yếu thì việc quy hoạch các điểm dừng chân cũng chưa tốt. Đối với chất lượng dịch vụ tạm cư vẫn còn hiện tượng bảo kê bao giá, kinh dinh chộp giật, cò mồi, chèo kéo, gian dối, thiếu tôn trọng khách hàng. Nhiều di tích lịch sử văn hóa chưa được bảo tồn đúng cách, hoặc bị xâm hại vì những nhóm ích, hoặc vỡ hoang chưa đúng cách. Nguồn nhân công được đào tạo ra chưa đáp ứng ngay, đặc biệt là trình độ ngoại ngữ và tri thức của đội ngũ chỉ dẫn viên còn yếu. Khổng thể thiếu ba đại diện PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn cho rằng, nâng cao chất lượng dịch vụ trên khuôn khổ nhà nước chỉ có thể phát triển nếu có sự dự đầy đủ của ba đại diện, gồm quốc gia đóng vai trò điều tiết, định hướng, chỉ đạo, tài trợ duyệt y các chương trình, dự án trọng tâm; Doanh nghiệp là nơi ứng dụng các giải pháp nâng cao chất lượng nhằm nâng cao năng lực quản trị dịch vụ bao gồm thiết kế sản phẩm dịch vụ, quản lý quá trình cung cấp dịch vụ và chuỗi cung ứng dịch vụ, đào tạo nhân công,… Và rốt cục là các cơ quan khoa học và nghiên cứu tham mưu đóng vai trò nghiên cứu, phân tích, đánh giá các nhân tố tác động đến sự cải thiện chất lượng, giới thiệu các xu hướng và giải pháp tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng, từ đó tăng năng suất và hiệu quả ở cả cấp độ nhà nước và doanh nghiệp. PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn khuyến nghi: “Cần nhấn mạnh yếu tố chất lượng của dịch vụ chứ không phải giá cả. Coi việc nâng cao năng suất trong ngành dịch vụ là một trong những giải pháp ưu tiên hàng đầu. Đặc biệt, cần khuyến khích phát minh, sáng tạo, cùng với xúc tiến cạnh tranh hơn nữa trong ngành dịch vụ và lwah chọn phát triển một số ngành dịch vụ ưu tiên. XUÂN BÁCH |