Chủ Nhật, 25 tháng 8, 2013

Không chia sẻ ngay gian của tiếp nhận.

Với Mrożek, đặc trưng viết ngắn đọng lại ở cái nhìn mang tính phúng dụ về đời sống, về nghệ thuật, làm thành những tác phẩm nhẹ-nhõm-sâu-cay khi cất tiếng cười giữa thế cuộc. Năm 1990, một bản dịch  Con voi  từ nguyên bản tiếng Ba Lan của dịch giả Nguyễn Hữu Dũng cũng được công bố tại Nhà xuất bản Tác phẩm mới. Ông muốn người ta cất tiếng nói từ sự độc lập tự chủ ấy, dù đơn thuần có khi chỉ là một phát hiện giản dị mà không đơn giản: “Tin tức khắc bảo đó là ‘vụ trẫm mình’, còn tôi thì tôi bảo, đó chẳng qua là một vụ tai nạn.

Tính cách trào lộng, do đó, giảng giải cho việc dễ dàng đính thêm phụ đề “Truyện châm biếm” vào bản dịch  Con voi  , khi nó được hiểu như là một dòng mạch phát triển khá mạnh mẽ trong văn học Việt Nam truyền thống.

Với riêng Nguyễn Hữu Dũng, đấy còn là ý hướng giới thiệu về nền văn chương Ba Lan, mà trước Mrożek, là những Henryk Sienkiewicz, Tadeusz Dolega Mostowicz, Helena Mniszek,… Ở góc cạnh thứ hai này, Nguyễn Hữu Dũng san sẻ với dịch giả đến sau là Lê Bá Thự, khi cả hai ông đều là những dịch giả dịch văn chương Ba Lan từ nguyên ngữ. Qua thời Nguyễn Hữu Dũng, loại thể được nhấn mạnh ở khía cạnh nội dung, khi được thêm định ngữ để trở nên “truyện châm biếm”.

Mrożek viết khoảng 40 vở kịch, đặc biệt với  Tango  (1964), ông đã tạo dựng được danh tiếng của mình trong dòng mạch những sáng tạo văn chương phi lý vào nửa sau thế kỷ XX. Rất ít khi đó là tiếng cười khôi hài, mà cốt tử là tiếng cười mỉa mai, châm biếm.

Một lời kết xuất sắc, cho nhiều hơn một kết thúc truyện. Ngoài tính năng sản của tác phẩm Mrożek, sự thay đổi trong kinh nghiệm thẩm mỹ của người Việt Nam cũng làm cho một số vấn đề trong tác phẩm của ông được nổi trội lên ở mặt này hay mặt khác, khi là thuộc tính cách mệnh tầng lớp, khi là hiệu quả nghệ thuật tự sự, khi là phương thức tiếp cận nghệ thuật về con người và tầng lớp.

4. Năm 1969, ở Sài Gòn, dịch giả Diễm Châu đã ban bố bản dịch  Con voi (Słoń  , 1957) tại Nhà xuất bản Trình Bầy, trước cả bản dịch sang tiếng Anh ba năm:  The Elephant  (Greenwood Press, 1972).

Mrożek cũng thành công với truyện ngắn và tiểu luận, nơi trình bày nhiều quan điểm sâu sắc của ông về nghệ thuật và thế cục.

2. Có thể đọc được hàng loạt các truyện ngắn của Mrożek từ ý kiến này. Bên cạnh tiếng cười trào phúng, có một bộ phận đáng kể những truyện của Mrożek được viết theo một văn pháp khác. Có thể nhòm những tác phẩm này như là những  viết ngắn  , còn được định danh bằng các tên gọi khác như truyện cực ngắn (nếu hình dung đấy là diễn ngôn truyện kể), là tiểu luận (nếu hình dong đấy là các diễn ngôn nghị luận).

Nhưng giữa bối cảnh văn hóa xuất hiện dịch phẩm Mrożek của Nguyễn Hữu Dũng và Lê Bá Thự, dẫu chỉ cách nhau mươi năm, cũng có những đổi thay đáng chú ý. Thêm nữa, bởi với một dịch giả tuấn kiệt không chỉ nằm lòng văn học phi lý, thì một Mrożek của  Tango  đến từ Ba Lan xã hội chủ nghĩa xa xôi (hay từ một nhà văn Ba Lan đang lưu vong tại Pháp), có thể là một dấu chỉ quan yếu cho việc truyền dẫn tới bạn đọc Việt Nam.

Và ở mỗi tuổi, ông đều mang đến cho người đọc Việt Nam ít nhiều những nhận thức và trải nghiệm mới mẻ. Trong cái nghề tự tử, thỉnh thoảng cũng xảy ra tai nạn chết người. 1. Gần đây nhất, tháng 5/2013, tập truyện  Con voi [Tuyển tập 85 truyện ngắn Mrożek]   của dịch giả Lê Bá Thự được Phương Nam và Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành, trên cơ sở phát triển từ tập  50 truyện ngắn Sławomir Mrożek  (Nhà xuất bản văn chương, 2002).

Nhưng khi tiếng cười vừa ngưng lại, thì nỗi buồn nhen nhóm rồi trào dâng. Ở Việt Nam, Mrożek lại được biết đến chủ yếu với tư cách nhà văn viết truyện ngắn trào lộng, ngay từ rất sớm, và cho đến tận hiện giờ. Sau Diễm Châu hai mươi năm, bản dịch của Nguyễn Hữu Dũng nghe đâu lại xuất hiện trong một quang cảnh văn hóa khác.

Truyện của Mrożek quyến rũ người đọc trước nhất ở tính cách trào phúng. Điều gì đã khiến Mrożek du hành tới Việt Nam chỉ mươi mười lăm năm sau khi ông khẳng định được tên tuổi của mình ở Ba Lan và châu Âu? Và vì sao lại là truyện ngắn chứ không phải kịch? có nhẽ sự hợp nhất trong phong cách trào phúng ở tất các thể loại mà Mrożek sáng tạo, với tính chất humour đặc trưng, khả năng dùng ngôn ngữ tinh tế và kỹ thuật giễu nhại điêu luyện, tuốt luốt hợp thành một phúng dụ về sự phi lý của cõi đời, kiếp người, mà xã hội Ba Lan chỉ là một trường hợp, đã đưa tác phẩm của ông vào tầm quan sát của dịch giả Diễm Châu.

Phẩm tính phi lý không được nhấn mạnh mà thay thế vào đó là phẩm tính trào phúng: tập sách của Nhà xuất bản Tác phẩm mới có thêm phụ đề “Tập truyện châm biếm”.

Gọi là viết ngắn để đẵn để nhấn mạnh đến thuộc tính giới hạn của tự sự, với sự gọn nhẹ của số lượng ngôn từ và khả năng bao quát ý tưởng, trong việc bao gộp thuộc tính kể việc và nghị sự, mà sự phân tích nhiều khi là bất khả.

” Đó là lời kết của truyện  Nghề tự vẫn. Nó khiến người đọc phải suy nghĩ, chua xót và nhằm nhò. Có thể nói, Mrożek đã du hành đến Việt Nam gần nửa thế kỷ. Đọc truyện, theo đó, người đọc trước hết được trải nghiệm tiếng cười.

Tiếng cười trong truyện Mrożek, do vậy, dù hài hước hay mỉa mai hay châm biếm, đều kéo theo ở phía bên kia của nó tiếng khóc. 5. Nó có trào lộng nhưng không  hẳn/chỉ  là trào lộng, thậm chí độc lập với chức năng phúng gián. Sự san sẻ giữa hai dịch giả, Có lẽ đều ở góc cạnh giá trị tư tưởng và tuấn kiệt nghệ thuật độc đáo của Mrożek.

3. Sławomir Mrożek (1930) được biết đến với tư cách họa sĩ biếm họa trước khi trở thành kịch tác gia, nhà văn trào lộng Ba Lan lừng danh thế giới. Nó được bật lên bởi sự lố lỉnh của nhân vật, sự hài hước của các chi tiết thông minh, sự bất ngờ của các sắp đặt khéo. Để ngay cả khi, nhiều ít những kinh nghiệm nghệ thuật của Mrożek có thể bị bỏ lỡ hay đã bị vượt qua, thì với nhiều khúc quành trong đời sống dịch thuật văn chương Việt Nam, ông vẫn hiện diện như một chỉ dấu lịch sử để văn chương Việt Nam soi rọi vào chính nó.

Đến thời Lê Bá Thự, định ngữ này lại được thay thế để thành “truyện rất ngắn”, một thể loại mới được biết đến ở Việt Nam, như một cộng hưởng để theo đó, hy vọng viết ngắn có thể trở thành thể loại ưu trội trong văn học Việt Nam thế kỷ mới.

Vậy là, cùng một đối tượng, hiện diện ở Việt Nam trong hơn 40 năm, trong những không gian đọc khác nhau, nhìn nhận về Mrożek đã có những chuyển đổi, theo cùng nhu cầu nhận thức và thưởng thức văn chương.

Trước hết, ở thời kỳ Diễm Châu dịch chuyển, đó đơn thuần chỉ là “truyện” trong sự biện biệt với thơ và kịch. Mrożek là người bắt bệnh cho từng lớp Ba Lan hiện đại, ông tin vào sự phản biện, vào sự độc lập trong suy nghĩ. Ở đấy, nhận thức sâu sắc cõi đời phi lý, sự giả trá của lòng người, sự lừa lật của quyền lực, Mrożek cất tiếng cười châm biếm, lật tẩy dung mạo khả ố của kẻ cai trị, đồng thời cất tiếng cười mai mỉa cả nạn nhân của nó, những người hài lòng và/hoặc chịu đựng thỏa hiệp với đời sống tha hóa ấy.

Thậm chí, hình thức “phản ngữ” để cất tiếng trào phúng cũng phần nào lép vế hơn so với các hình thức dùng ngôn ngữ giễu nhại phối hợp với hình tượng nghệ thuật kệch cỡm, lố lỉnh để tạo hiệu ứng công kích sâu cay. Tập  50 truyện ngắn Sławomir Mrożek  của Nhà xuất bản văn học cũng có kèm theo phụ đề: “Truyện ngắn, truyện cực ngắn chọn lọc”, trước khi trở về với phụ đề thân thuộc “Tập truyện ngắn” trong lần xuất bản bổ sung của Phương Nam và Nhà xuất bản Hội Nhà văn.