Thế nhưng thay đổi ra sao, trên nền tảng nào, thực hiện vào thời điểm nào… lại là cả vấn đề. Sự nghiệp giáo dục đối với Việt Nam không chỉ là động lực cho kinh tế mà còn là nguyên tố để chấn hưng văn hóa, giữ giàng và phát huy các giá trị Việt Nam. Cũng có rất nhiều tiêu chí được đặt ra với loại sách này. Thứ sáu, việc tuyển lựa khối lượng và tính chất các đơn vị kiến thức đưa vào chương trình nhiều khi chưa có tính sư phạm, còn quá tải, sai thực tại… Một vị lãnh đạo của Bộ GD-ĐT cũng nhận: Nội dung và phương pháp giáo dục lạc hậu, nặng về dạy chữ, gây hiện tượng quá tải không chỉ đối với học trò mà còn với công tác quản lý… Từ những vấn đề nêu trên có thể thấy cải tiến SGK là khôn xiết cấp thiết.
Thôi thì dù thất vọng nhưng vẫn tiếp phải hy vọng! nền móng nào để xây dựng bộ SGK chuẩn? Cho đến nay, đây vẫn là một câu hỏi chưa cho câu trả lời xác thực. Chúng ta đang giáo dục con người theo cách tiêu cực. Không ít kinh nghiệm soạn SGK của nước ngoài đã được hấp thụ và theo một nhà giáo dục học thì có đến 500 nhà khoa học đã tham gia soạn và thẩm định bộ SGK này.
Trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo chí, GS. Một vấn đề nữa, đổi mới giáo dục đào tạo phải được đặt trong tổng thể nền kinh tế - tầng lớp và những dự báo phát triển trong ngày mai.
Theo đó, bộ SGK mới được viết cho chương trình giáo dục phổ quát 10 năm, thay vì 9 năm như thời kháng chiến. Thế nên đổi mới giáo dục không thể tách rời việc canh tân sư phạm. Thứ năm, thiếu tính liên thông về kiến thức. Học sinh Việt Nam cần có một chương trình đào tạo mới và bộ SGK tích hợp những kiến thức căn bản, những giá trị văn minh của dân tộc và nhân loại, được xây dựng một cách có hệ thống mang tính đặc thù, đáp ứng đích đào tạo nguồn nhân lực của sơn hà chứ không phải là sự chắp vá, vay hay áp đặt một cách thô thiển công nghệ giáo dục từ các nước khác.
"Muốn thắng trong kinh tế, đầu tiên phải thắng trong giáo dục", chúng ta cần hình thành một triết lý giáo dục riêng mang đặc thù Việt Nam và định hình rõ mục tiêu giáo dục.
Tuy nhiên, sau một thời gian "lưu hành", SGK đã "phát lộ" nhiều bất cập và cho đến hôm nay, có thể thấy rằng SGK không chỉ là gánh nặng với học sinh, với thầy, cô giáo mà còn kéo theo nhiều hệ lụy cho tầng lớp. Trong kháng chiến chống Pháp, với mục tiêu xây dựng một nền giáo dục hợp với chế độ mới, chúng ta đã tiến hành cuộc cách tân giáo dục trước hết.
Nếu không có cách nhìn hệ thống, tư duy khoa học là lịch trình cụ thể thì công cuộc cải cách giáo dục không chỉ như "dã tràng xe cát" mà còn để lại nhiều hệ lụy cho các thế hệ người Việt trong ngày mai.
Ba cuộc cải cách giáo dục phổ quát đã làm tròn sứ mạng trong những tuổi lịch sử nhất định. Tại sao bộ SGK được xây dựng công phu với sự dự của đông đảo giới khoa học lại có kết quả như vậy? Vấn đề không chỉ là chuyện 3 cấp học với hàng chục môn, hàng trăm quyển sách, những chi tiết chưa chuẩn xác… mà là tư duy của những người làm quản lý giáo dục, những người làm SGK cứ bâng khuâng giữa dòng! Một nhà khoa học giáo dục đã chính trực nêu lên 6 vấn đề của SGK hiện nay.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về SGK, tựu trung có thể hiểu SGK là loại sách cung cấp tri thức, được biên soạn với mục đích dạy và học. Đã quá nhiều năm chúng ta kỳ vọng vào một bộ SGK chuẩn trong thời kỳ hội nhập, nhưng rồi vẫn thất vọng đến tận hiện. Theo Đại tự vị tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên), SGK là sách soạn theo chương trình, dùng để dạy và học trong trường phổ thông.
Với chức năng tự thân, SGK có vai trò đặc biệt quan trọng trong tiến trình nhận thức của học trò, chứa đựng hàm lượng căn bản nhất về kiến thức và là nền móng của tư duy sau này của đời người.
Nếu không có những người thầy máu nóng, trí tuệ sẽ không có những nhân cách, những hào kiệt cho giang sơn. Những cuốn sách giáo khoa trước tiên viết mộc mạc, in trên giấy bản đã xuất hiện vào năm 1950. Lần cải cách SGK thứ tư tiến hành vào năm 2002 được thực hành một cách bài bản hơn: Xây dựng chương trình, biên soạn tài liệu dạy thể nghiệm rồi mới làm SGK chính thức.
Nếu chỉ quan hoài đến việc viết lại sách sẽ không giải quyết được vấn đề gì… Như vậy, vấn đề đặt ra là xây dựng nội dung chương trình dạy học phải theo hướng giảm tải, kết cấu đồng bộ, hợp lý giữa giáo dục tư cách, lối sống với giáo dục tri thức - văn hóa - khoa học - công nghệ, giáo dục tư duy sáng tạo, kỹ năng sống, kỹ năng thực hiện.
Mấu chốt của giáo dục là dạy người và dạy làm người. Do đó, trước khi muốn viết lại sách để giáo dục thì nên canh tân lại phương pháp dạy và học, đổi mới định hướng cho chương trình, nội dung và phương pháp cho các bậc học. Thứ hai, SGK hiện định vị không đúng vai trò của các môn học trong cấu trúc tri thức (thí dụ, ngoại ngữ có vai trò quan yếu trong đời sống ngày nay nhưng lại là môn tự chọn, đưa vào chương trình từ lớp 3).
Kinh nghiệm từ những lần canh tân giáo dục trong lịch sử cũng như những lần thay đổi SGK trước đây không cho phép biến những "cải tiến" trong giáo dục - đào tạo thành "cải lùi". Vừa viết sách, vừa hình thành chương trình giáo dục trong bối cảnh vô cùng khó khăn, nhưng nền tảng kiến thức từ những cuốn SGK ấy đã tạo nên nhiều anh tài phục vụ sự nghiệp phát triển giang sơn.
Đặc biệt, phải xác định rõ mục tiêu giáo dục và việc đổi mới SGK là công đoạn chung cuộc trong quá trình đổi mới toàn diện hệ thống giáo dục. Thứ nhất, việc xây dựng chương trình học còn thiếu nhiều kiến thức, kể cả thiếu một số môn cốt lõi về khoa học tư duy, về kỹ năng sống, khả năng sáng tạo.
Để điều đó trở nên hiện thực thì không chỉ kiến lập cơ sở vật chất cho giáo dục - đào tạo mà còn phải thay đổi tư duy, nhận thức của những người thầy (bởi họ chính là cầu nối đưa mọi sự cách tân giáo dục đến với học sinh).
Với một chương trình giáo dục không còn phù hợp với từng lớp hiện đại, không bắt kịp với xu thế phát triển của thế giới thì đương nhiên phải thay đổi. Một lần nữa, SGK lại được "xới" lên với hàng loạt vấn đề như: Quá nặng về tri thức nhưng càng ngày càng xa vắng thực tiễn và không khuyến khích được tư duy sáng tạo của học trò; nội dung đổi thay và cải cách quá nhiều trong thời kì ngắn; khâu tổ chức soạn cũng có không ít vấn đề… Câu chuyện SGK với những khiếm khuyết hoặc quá thừa không chỉ làm hoang toàng tiền nong, thời kì mà còn đặt lên vai học sinh, ba những áp lực không đáng có.
Nếu tìm hiểu tiến trình phát triển của ngành giáo dục nước nhà gần một thế kỷ qua, mỗi lần cách tân giáo dục phổ biến là một lần… thay đổi sách giáo khoa. Thứ ba, những kiến thức dùng lối dạy đồng tâm, xuyên suốt các lớp là phương pháp có tính sư phạm cao, thành thử bộ SGK phải có một tổng chủ biên quán xuyến từ đầu đến cuối.
Cái hay ở chỗ là chỉ cần một bộ SGK in đen trắng trên giấy xấu đã được nhiều đời trong một gia đình giữ giàng, chuyền tay nhau học tập. Thuật ngữ SGK còn được hiểu là một loại sách chuẩn cho một ngành học. Đến năm 1956, sau hai năm "từng đoàn quân chiến thắng tiến về Thủ đô", để hợp nhất nền giáo dục trong chiến khu kháng chiến và những vùng địch tạm chiếm, một cuộc cách tân giáo dục mới được tiến hành.
Theo Phó chủ toạ Tổ chức phát triển quốc tế chuyên nghiệp Pearson - Sherry Preiss, "một cuốn SGK phải sống và chuyển động, kiến tạo và sáng tạo những kiến thức của người học, của đay đả và cộng đồng".
Từ đó đổi mới phương pháp dạy và học trên cơ sở coi người học là một chủ thể sáng tạo đầy tiềm năng để khêu gợi tiềm năng ấy mở ra và hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống từng lớp.
TS Trần hoá nhi, nguyên Bộ trưởng Bộ GD-ĐT cho rằng: Chúng ta phải đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, trong đó có rất nhiều việc phải làm chứ không phải chỉ có chăm bẳm nghĩ đến chuyện viết lại SGK.
Trong một thế giới hội nhập với sự vận động đến vô tận của kiến thức, chẳng thể tiếp kiến chạy đuổi để tạo ra những cỗ máy có thể nạp đầy tri thức mà phải tạo ra những con người có khả năng làm chủ kiến thức, biết độc lập suy nghĩ và giàu khả năng tư duy sáng tạo, biết sống, cống hiến bằng trái tim, bằng bổn phận với giang san, với dân tộc.
Thứ tư, SGK hiện giờ thiếu tính xuyên môn trong cấu trúc chương trình. Thế nhưng chúng ta đã không làm được điều ấy nên tri thức bị phân khúc, tách rời, ngắt quãng. Tiếp đó, sau 4 năm giải phóng miền Nam hợp nhất tổ quốc, năm 1979, nhằm thống nhất nền giáo dục chung cho cả nước, cuộc cách tân giáo dục lần thứ ba được tiến hành với việc xây dựng hệ thống giáo dục phổ biến 12 năm.